Cơ giới hóa là sự lựa chọn hàng đầu trong ngành trồng trọt.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu thế chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động nông thôn sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đòi hỏi phải có máy móc thay thế lao động thủ công. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức nếu không có những giải pháp hữu hiệu để đẩy nhanh cơ giới hóa và giảm tổn thất sau thu hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp truyền thống “con trâu đi trước cái cày theo sau” cách đây hơn 5 năm về trước không chỉ “vắt” hết sức lao động của người dân, năng suất cây trồng thấp mà hiệu quả kinh tế kém so với công sức và tiền của nông dân bỏ ra. Bên cạnh đó, phương pháp làm nông nghiệp truyền thống còn ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi độ phì nhiêu của đất, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của ngành trồng trọt. Do đó, việc Trung ương, cũng như các địa phương ban hành nhiều chính sách khuyến khích áp dụng CGH đồng bộ vào sản xuất như một luồng gió mới tạo bước đột phá cho ngành nông nghiệp cả nước.

Phát biểu tại Diễn đàn, TS Phan Huy Thông - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá: “Tốc độ CGH các khâu sản xuất trong nông nghiệp những năm gần đây khá tích cực, đặc biệt là CGH đồng bộ trong trồng trọt. Đây chính là một trong những thước đo đánh giá năng lực hiện đại hóa sản xuất, hình thành sức cạnh tranh nông nghiệp hàng hóa. Đồng thời, có ý nghĩa to lớn trong việc giảm tổn thất sau thu hoạch, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu SXNN theo hướng hàng hóa – một trong những nội dung của Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020”. Cũng theo TS Thông, tính đến năm 2014 trang bị động lực bình quân trong SXNN cả nước đạt 1,6 mã lực/ha canh tác, tăng gấp 2 lần so với năm 2008. Số lượng máy động lực, máy nông nghiệp sử dụng trong SXNN tăng nhanh. Cụ thể, máy kéo tăng 1,6 lần; máy gặt lúa tăng 25,6 lần (chủ yếu tập trung ở vùng ĐB sông Cửu Long); máy phun thuốc BVTV 5,8 lần; bơm nước tăng 1,2 lần; một số loại máy giảm về số lượng như máy tuốt lúa giảm 50% do sử dụng máy gặp đập liên hợp tăng nhanh, máy sấy giảm 8% về số lượng nhưng năng lực sấy tăng 20% so với năm 2006. Cơ giới hóa đồng bộ trong  nông nghiệp không ngừng nâng lên do nhu cầu và hiệu quả của nó mang lại. Điều này có thể thấy rõ nét nhất trong lĩnh vực trồng trọt chiếm tỷ lệ CGH cao nhất. Hiện khâu làm đất đạt tỷ lệ từ 70 - 92%; khâu gieo trồng đạt 30 – 70%; chăm sóc 60 – 70%; khâu thu hoạch từ 20 – 42%, cá biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt tới 76%; bảo quản, sấy đạt trên dưới 46% cũng tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long…


Một trong những tỉnh được đánh giá đi đầu cả nước về phong trào CGH đồng bộ là Thanh Hóa. Tính đến năm 2015, mức độ CGH khâu làm đất ở Thanh Hóa đạt bình quân trên 90%, trong đó một số huyện như Thiệu Hóa, Nga Sơn, Quảng Xương, Nông Cống, Đông Sơn, Yên Định… đạt tới 95 – 100%; khâu cung cấp nước từ 52 – 75%; thu hoạch đạt 35%, cá biệt có những huyện đạt 60 – 80%. Cũng tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 360 máy kéo cỡ lớn, 2.463 máy kéo cỡ trung, 11.275 máy kéo cỡ nhỏ, 9.100 máy bơm, 120 máy cấy, 353 máy gặp đập liên hợp, 5.120 máy nghiền thức ăn gia súc, 440 máy sấy nông sản, 15.567 máy chế biến lương thực… Mức độ trang bị động lực trong sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh đến năm 2015 đạt bình quân 3,75 HP/ha (tăng 19,4% so với năm 2010); trong đó đất trồng cây hằng năm đạt 1,55 HP/ha (cao hơn bình quân cả nước 1,4%). Ông Nguyễn Văn Nam - Phó giám đốc Sở NN& PTNT Thanh Hóa cho biết: “Để khuyến khích nông dân áp dụng CGH vào sản xuất, chúng tôi đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ các địa phương đầu tư hạ tầng, mua máy móc, thu hút doanh nghiệp. Nhờ đó, tổng diện tích áp dụng CGH đồng bộ toàn tỉnh đến thời điểm này nâng lên gần 5.200 ha; góp phần giảm chi phí đầu tư từ 3 – 7 triệu đồng/ha; năng suất tăng 15 – 20%; giá trị sản xuất trên đơn vị canh tác đạt trên 78 triệu đồng/ha/năm. Đặc biệt, giải quyết tốt tình trạng thiếu lao động và áp lực thời vụ”. Đồng thời CGH đồng bộ trong trồng trọt còn tăng đáng kể hiệu quả kinh tế trong sản xuất thông qua việc tăng năng suất, chất lượng, giảm giá thành; năng suất tăng từ 10 đến 20%; sâu bệnh giảm đáng kể; chất lượng nông sản được đảm bảo nhờ việc thu hoạch nhanh, phơi sấy, sơ chế đúng thời điểm và đảm bảo quy trình kĩ thuật.

Bên cạnh đó TS Phan Huy Thông cho rằng mặc dù việc áp dụng CGH vào SXNN nói chung, trồng trọt nói riêng chuyển biến nhanh nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ như: bình quân mã lực/ha canh tác thấp so với các nước trong khu vực, nhất là các tỉnh khu vực miền núi; khâu thu hoạch bằng máy, sấy lúa ở các vựa lúa lớn đang thấp, nhất là vụ hè thu nên hiệu quả kinh tế đạt chưa cao; việc phân bổ công suất máy giữa các địa phương, các vùng không đồng đều…

Nông dân là cổ đông trong kinh doanh dịch vụ CGH.

Có thể thấy, sản xuất nông nghiệp hiện nay đang đứng trước những thời cơ lớn về hành lang pháp lý, cơ chế chính sách, nguồn lực từ TW đến địa phương đang tập trung cao độ đầu tư cho nông nghiệp và chương trình xây dựng NTM, thị trường trong nông nghiệp mở rộng, khoa học công nghệ phát triển góp phần tăng nhanh năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản; dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp khá hoàn thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật tư, thiết bị, công nghệ trong ngành trồng trọt.

Để dịch vụ CGH đồng bộ đi vào thực tiễn, tại Diễn đàn này, ông Bùi Tiến Lực, chủ cơ sở Tiến Anh (xã Định Hòa - Yên Định – Thanh Hóa) chia sẻ phương pháp mà cơ sở thực hiện thành công. Cơ sở tổ chức khoán việc cho người lao động, để nông dân cùng góp cổ phần. Theo đó, máy cày, bừa cơ sở khoán 600 ngàn đồng/ha, trừ phần khoán sản phẩm, người lao động được chia lợi nhuận theo tỷ lệ 30-70%; máy cấy khoán 800 ngàn đồng/ha, tỷ lệ 30-70%; máy gặt, khoán 600 ngàn đồng/ha, tỷ lệ hưởng lợi nhuận 45-55%. Đồng thời, tổ chức liên kết giữa các cơ sở với nhau, giữa cơ sở với doanh nghiệp tạo ra chuỗi sản xuất đồng bộ. Ông chia sẻ một ví dụ: “Vụ Mùa 2015, cơ sở của tôi phải cấy 100 ha lúa, trong khi thời vụ ngắn nên tôi phải liên kết các cơ sở bạn đưa máy về cấy cho kịp lịch thời vụ nhằm đảm bảo tốt cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa trên đồng đất địa phương. Sau đó, cơ sở của tôi lại đưa máy móc của mình đi cấy ở các vùng khác mà cơ sở bạn làm dịch vụ. Hay liên kết với công ty Tiến Nông cung ứng phân bón trả chậm cho nông dân…”. “Những cách làm trên vừa giảm chi phí đầu tư ban đầu vừa tạo sự hài hòa lợi ích giữa nông dân, doanh nghiệp và các cơ sở làm dịch vụ với nhau” - ông Lực nhấn mạnh.

Cũng theo ông Lực, việc cho nông dân góp cổ phần không chỉ giúp cơ sở tăng được vốn đầu tư mà còn tạo khí thế hăng say làm việc, để người lao động gắn bó với mình, tránh trông chờ, ỉ lại. Nếu để tự cá nhân độc lập làm thì chỉ làm được một số công đoạn. Còn nếu làm CGH đồng bộ thì phải có sự liên kết với nhau. Do đó, việc góp vốn bằng công lao động là rất hợp lý. Còn ông Nguyễn Mạnh Hồng, chủ cơ sở mạ khay, máy cấy Phú Thanh, huyện Triệu Sơn (Thanh Hóa) thì thẳng thắn chia sẻ: “Vốn liếng, cũng như công nghệ mà các cơ sở mạ khay, máy cấy hiện nay có được phần lớn là do truyền miệng hoặc vài lần tham gia hội thảo vội vã nên cách làm không ai giống ai. Do đó, các cơ quan chuyên môn cần tổ chức cho các cơ sở CGH đồng bộ tập huấn, học nghề chuyển giao KHKT. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ mặt bằng giúp người người đầu tư ổn định quy mô, mở rộng dịch vụ”.

Có thể nói, việc đưa CGH đồng bộ vào trồng trọt đã góp phần rất lớn thay đổi tập tục canh tác lạc hậu của nông dân; hạn chế bơm thuốc sâu, bảo vệ môi trường; giảm thiểu rủi ro cho bà con và tăng năng suất cây trồng. Tất nhiên, để dịch vụ này thực sự phát huy tối đa hiệu quả thì “cần liên kết chặt chẽ “4 nhà”, từ khâu nghiên cứu, chế tạo máy sao cho phù hợp đồng đất từng vùng, sản xuất phụ tùng kèm theo, người tổ chức dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực vận hành máy, tích tụ ruộng đất… 

Thái Phiên