Việt Nam là một nước đang phát triển và đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Trong bối cảnh đó, nước ta có những cơ hội để phát triển, đồng thời đang và sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Trong 3 năm đầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã vươn ra thị trường thế giới; nhiều sản phẩm đã đứng ở những vị trí cao trong thị phần của thế giới, như lương thực, cà phê, cao su, thủy hải sản… Tuy nhiên, khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam cũng phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và lợi thế cạnh tranh là giá nhân công rẻ đã giảm đi đáng kể. Khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn quá thấp. Gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% lao động nông nghiệp, nông thôn, trong đó đa phần có kỹ năng nghề rất thấp; sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính truyền thống. Trong cơ cấu GDP, nông nghiệp vẫn chiếm 25%, trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn 3%. Điều này cho thấy để bắt kịp trình độ của thế giới, Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều để tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ, trong đó quan trọng nhất là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn.

Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn - kết quả bước đầu

Hiện nay, tổng số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân là trên 47 triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo nghề có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Trong Nghị quyết số 26-NQ-TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn có đề ra: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn…. Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn; phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”(1).

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, ngày 28-10-2008 Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ- CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có mục tiêu: “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên 2,5 lần so với hiện nay”. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động của Chính phủ là: “Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở”.

Để cụ thể hóa Chương trình hành động, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: “ Bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn…”. Đối tượng của Đề án này là lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên đào tạo nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện có đất thu hồi…

Đề án đã đề ra đồng bộ các chính sách đối với người học nghề, chính sách đối với người dạy nghề (bao gồm giáo viên, giảng viên trong các cơ sở dạy nghề; cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề) và chính sách đối với các cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn.

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã nêu, Đề án đã đề ra đồng bộ 5 nhóm giải pháp, gồm (1) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của cán bộ, công chức xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối với tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; (2) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý; (4) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu; (5) Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện Đề án.

Đề án cũng đã đề ra 8 nhóm hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn, bao gồm (1) Tuyên truyển, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn; (2) Điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn; (3) Thí điểm các mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn; (4) Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập; (5) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu và xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề; (6) Phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề; (7) Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề; (8) Giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án.

Đồng thời với Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, ngày 4-6-2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020”. Theo đó, sẽ có 11 nhóm nội dung phải triển khai thực hiện từ nay đến năm 2020, trong đó có nội dung “đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn”.

Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn lại được Đảng và Nhà nước quan tâm như hiện nay và đã có những cơ chế, chính sách và các giải pháp đồng bộ để thực hiện. Đến nay đã có gần 80% số tỉnh đã đưa nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn vào nghị quyết của đại hội đảng bộ tỉnh giai đoạn 2011-2015.

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là việc làm có tính xã hội và nhân văn sâu sắc, do đó đã nhận được sự đồng thuận rất cao của người dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng. Tư tưởng bao trùm của các chủ trương, đề án của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là góp phần tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại trong nông nghiệp; tạo ra những lao động có kiến thức, có kỹ năng sản xuất hiện đại, có khả năng thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế trong sản xuất nông nghiệp.

Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, từ nay đến năm 2015, 70% số lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này đạt được là 80% vào những năm sau đó. Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi có Quyết định số 1956 QĐ-TTg, tất cả các địa phương trong cả nước đã đồng loạt tổ chức điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực hiện từ các thôn, bản, xóm, ấp, tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp thực tiễn của người dân nông thôn. Tính đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc điều tra, khảo sát nhu cầu và có 33 tỉnh, thành phố đã tổng hợp số liệu điều tra. Theo thống kê sơ bộ, hiện có khoảng 12% - 15% số lao động nông thôn có nhu cầu được đào tạo nghề với trên 600 nghề khác nhau, trong đó nhóm nghề nông nghiệp chiếm trên 42%. Đây là căn cứ rất quan trọng để các cơ sở dạy nghề trong cả nước tổ chức xây dựng chương trình và mở các khóa dạy nghề phù hợp.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã hướng dẫn các địa phương tổ chức triển khai thực hiện đề án theo 19 nhóm công việc cụ thể. Tuy mới triển khai thực hiện, nhưng các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, đã đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Hoạt động dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn thu hút được sự tham gia của các viện nghiên cứu, các trường đại học; sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp; những nghệ nhân, người có tay nghề cao trong các làng nghề… Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo. Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động vùng chuyên canh ở một số địa phương (như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai…) cho thấy, kỹ năng nghề của người nông dân đã được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và Việt Nam; về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn, bản, làng, xã tham gia các khoá đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi được học nghề. Tại những địa bàn nghèo, các doanh nghiệp ngoài việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, còn hỗ trợ đầu tư các công trình xã hội, như trường học, xây dựng đường liên thôn, liên bản…, góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới. Riêng đối với 11 xã thí điểm xây dựng nông thôn mới, mỗi xã tối thiểu đã tổ chức được hai lớp dạy nghề cho nông dân theo các mô hình đặc thù của xã.

Một số vấn đề đặt ra

Để các hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn thực sự hiệu quả, tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần tiếp tục thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương. Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.

Thứ hai, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh- dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc các nhu cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp. Để làm tốt việc này, ngoài việc huy động các cơ quan chuyên môn (lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thống kê…) cần kết hợp với công tác tuyên truyền, tư vấn nghề nghiệp, thông tin đến từng người dân về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp...

Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác…), nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.

Thứ tư, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ (theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010).

Thứ năm, để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện hội nhập./.

Theo TCCSĐT