Quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, tỉnh Hải Dương đã cụ thể hóa và tổ chức triển khai hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng bền vững ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực và đã đạt được những kết quả cao: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 2,4%; giá trị sản xuất/ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 162 triệu đồng; hình thành và phát triển các khu, vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung, giá trị kinh tế cao; Hình thành và phát triển được các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung theo hình thức “cánh đồng lớn”, “cánh đồng liên kết”, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Duy trì và mở rộng các vùng sản xuất rau màu tập trung, có thị trường tiêu thụ ổn định, giá trị kinh tế cao như: vùng hành, tỏi ở Kinh Môn, Nam Sách; củ đậu ở Kim Thành, Kinh Môn; cà rốt ở Cẩm Giàng, Nam Sách, Tứ Kỳ; su hào, cải bắp, súp lơ ở Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện; sắn dây ở Kinh Môn… Giá trị sản xuất tại những vùng sản xuất tập trung đạt khoảng 250 triệu đồng/ha, có một số vùng đạt trên 1 tỷ đồng/ha; Toàn tỉnh hiện có trên 510 vùng lúa hàng hóa tập trung, quy mô tối thiểu 30 ha/vùng, gần 500 ha cây rau màu tập trung quy mô tối thiểu 5 ha/vùng và 109 vùng sản xuất trái cây, quy mô 10 ha/vùng trở lên gắn với bao tiêu sản phẩm. Có 25 ha nhà màng, nhà lưới, 500 ha trồng rau chuyên canh ứng dụng hệ thống tưới nước theo công nghệ tiên tiến tiết kiệm khoảng 55% nước so với phương pháp tưới truyền thống; Có 15 khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư với quy mô từ 3 ha trở lên, nhiều mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên nền đệm lót sinh học, mô hình chăn nuôi ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất thức ăn dạng lỏng cho lợn, mô hình chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học và bảo vệ môi trường; 32 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung có quy mô từ 20 ha trở lên bảo đảm an toàn môi trường và cho năng suất cao; Các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao theo hướng đồng bộ, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông minh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, hướng tới phát triển nền nông nghiệp toàn diện, bền vững đã được nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp quan tâm thực hiện. Từ năm 2015 đến nay, toàn tỉnh có 18 nhiệm vụ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất sạch được phê duyệt. Việc triển khai các mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao cũng đã được doanh nghiệp và người dân áp dụng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hải Dương duy trì và mở rộng các vùng sản xuất rau màu tập trung

 

Bên cạnh đó Hải Dương rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp hữu cơ được các cấp, các ngành quan tâm, đạt kết quả khả quan. Đến nay, toàn tỉnh đã có gần 10.000 ha cây trồng sản xuất theo quy trình VietGAP, trong đó cấp giấy chứng nhận được 600 ha. Có 60 cơ sở chăn nuôi tập trung được cấp chứng nhận VietGAP; trên 1.100 hộ chăn nuôi được tập huấn kỹ thuật sản xuất theo VietGAP. Các sản phẩm sản xuất theo quy trình GAP, sản xuất theo hướng hữu cơ thực sự đã phát huy hiệu quả vượt trội cả về năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ còn gặp phải những khó khăn và hạn chế lớn, đó là:

Một là, khó khăn về vốn. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần nguồn vốn lớn để đầu tư, phát triển. Thực tế cho thấy để phát triển trang trại chăn nuôi trung bình theo mô hình công nghệ cao chi phí gấp 4-5 lần so với xây dựng trang trại theo mô hình truyền thống. Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng còn gặp nhiều khó khăn. Thiếu hụt vốn đầu tư đang là rào cản lớn nhất trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Hai là, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Nguồn nhân lực nông nghiệp là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, song hiện nay ở tỉnh ta đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Phần lớn người nông dân không đủ năng lực làm chủ công nghệ tiên tiến, làm hạn chế việc tiếp cận và ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất; thiếu kiến thức hội nhập quốc tế, liên kết sản xuất, phát triển chuỗi giá trị, kinh doanh, thị trường, ứng dụng công nghệ thông tin...

Ba là, đất đai manh mún, nhỏ lẻ. Để sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ cần phải có đất đai quy mô lớn, ở vị trí thuận lợi cho sản xuất và lưu thông. Ruộng đất ở tỉnh ta hiện nay nhỏ lẻ, manh mún là lực cản lớn cho việc ứng dụng công nghệ cao, nhất là việc công nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Bốn là, thị trường tiêu thụ bấp bênh. Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ tạo ra khối lượng nông sản lớn, đòi hỏi thị trường tiêu thụ phải được mở rộng. Nhưng hiện nay, tuy tỉnh đã có nhiều giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ nhưng nhìn chung thị trường chưa đa dạng, hạn hẹp, không ổn định, bị phụ thuộc vào một hai khu vực. Nông nghiệp hữu cơ năng suất thấp, giá thành cao, khó tiêu thụ.

Năm là, vấn đề nghiên cứu và chuyển giao công nghệ còn yếu. Mục tiêu lớn nhất của nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao nên vấn đề công nghệ cao phải đặt lên hàng đầu. Nhưng thực tế năng lực nội sinh lĩnh vực nghiên cứu khoa học - công nghệ ở tỉnh ta nói riêng, nước ta nói chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. 

Sáu là, cơ chế chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ còn nhiều bất cập như: chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thủ tục còn rườm rà, phức tạp, chính sách đất đai với thời hạn và hạn điền chưa phù hợp... đang là những nút thắt ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ...

Trước những khó khăn, hạn chế trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, Hải Dương đưa ra một số giải pháp để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ tập trung, nâng cao giá trị gia tăng một cách bền vững như sau:

Thứ nhất, giải pháp về truyền thông và đào tạo nguồn nhân lực. Tiếp tục tăng cường công tác thông tin tuyên truyền các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến các tổ chức và cá nhân, nhất là người nông dân nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng cũng như khuyến khích tham gia vào phát triển nông nghiệp công nghệ cao; Đẩy mạnh đào tạo nghề nông cho nông dân. Thông qua các khóa đào tạo này cung cấp cho nông dân kiến thức, kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại, giúp người nông dân thay đổi kỹ năng sản xuất, hình thành tư duy thị trường, năng lực tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. 

Thứ hai, giải pháp về đất đai và tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Bảo vệ nghiêm ngặt diện tích đất nông nghiệp cho năng suất, chất lượng cao, nhất là đất trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực đã được xác định trong báo cáo chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh việc dồn điền đổi thửa ở các địa phương hình thành nên các cánh đồng lớn. Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi dồn điền đổi thửa; hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và nông dân; khuyến khích nông dân góp vốn bằng ruộng đất vào doanh nghiệp; phát triển ngành nghề ở nông thôn, chuyển đổi nông dân sang lĩnh vực khác có thu nhập cao hơn. Trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, cần quy hoạch phát triển vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tập trung, tạo năng suất cao, giá trị lớn mang tính ổn định. Đồng thời từng bước mở rộng vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ đáp ứng mọi nhu cầu.

Thứ ba, giải pháp về thị trường tiêu thụ. Cần đa dạng hóa các hình thức truyền thông để mở rộng thị trường tiêu thụ (cả trong tỉnh và ngoài tỉnh), đi đôi với xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hóa. Thực hiện liên kết thực hiện đồng bộ các khâu từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, nhất là kiểm soát chất lượng sản phẩm. Khuyến khích phát triển các công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tăng tỷ lệ xuất khẩu tinh để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, tạo thương hiệu phát triển bền vững. Gắn kết sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ với phát triển du lịch sinh thái để vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, vừa quảng bá và tiêu thụ sản phẩm.

Thứ tư, giải pháp về khoa học - công nghệ. Có chính sách khuyến khích thúc đẩy các đề tài nghiên cứu, sáng tạo, ươm tạo, chuyển giao, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Thực hiện cơ chế “đặt hàng” trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ giữa tỉnh với các tổ chức nghiên cứu khoa học trong và ngoài tỉnh để phát triển nông nghiệp giá trị gia tăng cao. 

Thứ năm, giải pháp về cơ chế, chính sách. Tiếp tục có những cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích, tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể để kích thích, thu hút các tổ chức, cá nhân, các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, các tổ chức khoa học - công nghệ đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Xác lập quyền tài sản (nhà lưới, nhà màng, nhà kính, hệ thống tưới tiêu...) trên đất nông nghiệp để các tổ chức, cá nhân có cơ sở vay vốn; thực hiện cấp giấy xác nhận doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao; các ngân hàng thương mại phải nhanh chóng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn để các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng. Quan tâm bố trí tăng thêm nguồn ngân sách tỉnh để thực hiện các chương trình, đề án, dự án của ngành nông nghiệp, nhất là các nội dung liên quan đến sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ; liên kết trong sản xuất; phát triển sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa.

Minh Khoa

Trung tâm Khuyến nông Hải Dương