Nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL tập trung tại 8 tỉnh ven biển: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau với hai đối tượng chính là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Những năm qua, nuôi tôm nước lợ, ngoài việc đóng góp vào tăng kim ngạch xuất khẩu, còn tạo công ăn việc làm cho người dân, đặc biệt đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội cho các tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, phát triển nuôi tôm nước lợ còn gặp nhiều khó khăn, nhất là công tác quy hoạch.

Tại hội thảo, các đại biểu đã bàn về những vấn đề phát triển tôm nước lợ trong thời gian qua, về nguồn lực và khả năng thúc đẩy phát triển nuôi tôm nước lợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Qua đó góp phần nuôi tôm nước lợ theo hướng hiệu quả, bền vững, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ trong nước và chế biến xuất khẩu, tạo thêm việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội cho khu vực đồng  bằng sông Cửu Long.

Theo Dự thảo quy hoạch, đến năm 2020, toàn khu vực đồng bằng sông Cửu Long sẽ có tổng diện tích hơn 600 ngàn ha nuôi tôm nước lợ; trong đó tôm sú khoảng 550 ngàn ha, còn lại là tôm thẻ chân trắng; tổng sản lượng gần 750 ngàn tấn, giá trị xuất khẩu khoảng 3,8 tỷ USD; tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động.

Hội thảo đã đưa ra các giải pháp cho việc phát triển nuôi tôm nước lợ trong điều kiện ít được thuận lợi; phát triển nuôi tôm nước lợ trong điều kiện thuận lợi; quy hoạch cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần…Nhiều nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đến từ các viện, trường cho rằng: khu vực đồng bằng sông Cửu Long còn tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi tôm nước lợ nhưng thời gian qua thiếu quy hoạch cụ thể, thiếu cơ chế chính sách để phát triển lĩnh vực này; chưa có các giải pháp về khoa học công nghệ, khuyến ngư và hợp tác quốc tế; thị trường và xúc tiến thương mại…

Các đại biểu cho rằng điều kiện cơ sở hạ tầng thủy lợi trong vừng chưa đồng bộ, vấn đề về dự báo môi trường và phòng chống dịch bệnh chưa được quan tâm đúng mức, mối liên kết giữa doanh nghiệp và người nuôi tôm còn mờ nhạt và cần tăng cường thành lập các nhóm hộ nuôi, tổ hợp tác để chia sẻ, gắn kết lợi ích chung giữa người nuôi tôm với nhau.

Kết luận hội thảo, TS. Nguyễn Huy Điền – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản khẳng định việc quy hoạch phát triển nhanh là đổi mới và đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. TS đề nghị cần tập trung đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có khả năng tiếp cận ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, đồng thời tăng cường năng lực cán bộ kiểm dịch, quản lý kiểm soát môi trường và vấn đề an toàn thực phẩm tôm nuôi; Tổ chức nuôi tôm nước lợ gắn với cộng đồng, thực hiện các quy phạm nuôi tôm nước lợ, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, hợp tác xã, tổ hợp tác, ban quản lý vùng nuôi tôm nước lợ để thống nhất quản lý môi trường, nguồn nước, phân công hợp tác trong thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm và hỗ trợ nhau về vốn; Nâng cao chất lượng sản phẩm với việc thực hiện quy trình VietGAP, SQF; tuyên truyền thực hiện không sử dụng các hóa chất kháng sinh bị cấm trong nuôi trồng thủy sản, chống bơm chích tạp chất vào nguyên liệu thủy sản; Tổ chức quản lý quy hoạch tôm nước lợ cần phối hợp, gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch trong nghành nông nghiệp và các ngành khác, đặc biệt là quy hoạch thủy lợi, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch các khu công nghiệp... bảo đảm phát triển bền vững hài hòa lợi ích của các lĩnh vực, các ngành trong nền kinh tế.

Nguyễn Quảng Bình

Trung tâm Tập huấn và CGCN Nông nghiệp vùng ĐBSCL