Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Lê Quốc Doanh cùng các đại biểu thăm mô hình sản xuất chè của công ty Mỹ Lâm

Để đạt được chứng chỉ nông nghiệp bền vững, Công ty đã đặt ra 10 nguyên tắc, 99 tiêu chí đánh giá, truy xuất nguồn gốc được tổ chức cấp chứng nhận giám sát, yêu cầu người sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ thực hiện: bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái, bảo vệ động vật hoang dã, bảo tồn nguồn nước, đối xử công bằng và điều kiện làm việc người lao động, sức khỏe nghề nghiệp và an toàn lao động, quan hệ cộng đồng, quản lý sâu bệnh tổng hợp IPM, quản lý và bảo tồn đất, quản lý rác thải tổng hợp.

Thực trạng tổ chức liên kết tại các nông trường chè

Lãnh đạo Công ty cho biết, mô hình sản xuất phổ biến của các nông trường chè hiện nay là khoán sản phẩm, cung cấp ứng trước vật tư và hướng dẫn quy trình kỹ thuật. Công tác giám sát, kiểm tra còn nhiều hạn chế. Tập quán canh tác không thống nhất, mỗi hộ canh tác theo cách riêng, mức độ tuân thủ quy trình kỹ thuật chỉ mang tính chất đối phó, sản phẩm chè bán cho công ty và bán ra bên ngoài. Vì vậy, không thể quản lý được chất lượng chè búp tươi và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.  Cơ chế liên kết kinh tế là trên cơ sở mua và bán chè búp tươi giữa nhà máy với từng hộ khoán căn cứ vào giá thị trường từng thời điểm. Với mô hình này thì thấy rõ sự khập khiễng và không phù hợp giữa các yếu tố. Cụ thể là doanh nghiệp không điều hành được lực lượng sản xuất, lực lượng lao động chưa phù hợp, chưa tương xứng và chưa phát huy hiệu quả tư liệu sản xuất.

Đổi mới liên kết tổ chức sản xuất ở Công ty CP Chè Mỹ Lâm

Với Công ty CP Chè Mỹ Lâm, thực hiện đổi mới quan hệ sản xuất dựa trên nguyên tắc hộ nông dân và doanh nghiệp phải tìm được mục đích chung, gắn kết với nhau bằng lợi ích kinh tế bền vững, lợi ích cộng đồng và thể chế pháp luật; đổi mới nhằm loại bỏ hình thức tổ chức sản xuất manh mún, dựa vào kinh tế hộ gia đình, tiến tới xây dựng sản xuất tập trung, phát triển bền vững, nâng cao năng suất lao động, sản lượng, chất lượng chè búp tươi và tăng thu nhập cho người nông dân.

Với cấu trúc sau đổi mới thì nhà máy và hộ nhận khoán liên kết tập trung và hưởng kết quả lao động theo lương tháng hoặc lứa hái dựa trên phân công công việc hợp lý và gắn kết vì lợi ích chung mang tính bền vững (cấu trúc cũ là nhà máy và hộ khoán liên kết thông qua mua – bán sản phẩm chè búp tươi dựa trên hợp đồng khoán sản phẩm). Thực hiện theo cấu trúc mới này, người nông dân đóng vai trò là một chủ thể quan trọng không thể thiếu trong mối quan hệ sản xuất với doanh nghiệp trên cơ sở phân công lao động một cách hợp lý dựa vào thế mạnh và phát huy hết tiềm năng của mỗi bên. Người nông dân vẫn là chủ thể trực tiếp quản lý tư liệu sản xuất và hưởng lợi trên cơ sở thành quả lao động của mình. Theo đó, mô hình tổ chức là các đội sản xuất (quy mô 40 – 50 ha/đội). Đội trưởng là người Công ty cử, thực hiện việc điều hành các tổ dịch vụ, giám sát sâu bệnh và kỹ thuật nông nghiệp, nhận lương và phát lương cho từng hộ khoán. Đội phó là người do các hộ nhận khoán bầu, thực hiện việc điều hành lao động, cấp phát vật tư và ghi chép sản lượng, giao nhận sản phẩm. Tổ dịch vụ bao gồm các tổ bảo vệ thực vật (3 người), tổ đốn và thu hái chè (5 người), tổ bón phân (5 người), những người này đều do Công ty trả lương. Với hộ nhận khoán, thực hiện những việc như làm phân hữu cơ đầu năm, làm cỏ bằng tay, xới và lấp sau khi bón phân, phục vụ nước phun thuốc, trồng hàng rào thực vật, thảm thực vật để chống xói mòn, tránh phơi nhiễm và bảo vệ môi trường, trồng cây bóng mát, chăm sóc, phát hiện sâu bệnh, vệ sinh và bảo vệ vườn chè, hái chè búp vượt, đóng chè tươi vào túi lưới, giám sát, ký phiếu nghiệm thu cho các tổ dịch vụ thực hiện công việc trên vườn chè của mình. Công ty đầu tư phân hữu cơ, phân vô cơ NPK, thuốc trừ sâu, công đốn chè, hái chè, bón phân, bảo hộ lao động cho tổ dịch vụ và từng hộ khoán, quản lý điều hành sản xuất.

Với cách làm này, hộ nhận khoán không phải bỏ tiền đầu tư cho vườn chè, được đảm bảo thị trường đầu ra. Hộ khoán được nhận lương tháng hoặc theo lứa hái trên cơ sở đánh giá sản lượng vườn chè hàng năm nhân với diện tích nhân với hệ số giống chè và mức độ hoàn thành công việc được phân công trong tháng (chỉ áp dụng với vườn chè khỏe mạnh có năng suất tối thiểu từ 10 tấn/ha). Mức lương được thống nhất từ đầu năm trên cơ sở kế hoạch kinh doanh và thị trường của Công ty. Hộ khoán, đội trưởng đảm bảo đạt tối thiểu 95% sản lượng thì được 100% lương. Sản phẩm được tổ thu hái 100% chuyển về nhà máy sản xuất nên không phát sinh quan hệ mua – bán chè búp tươi giữa nhà máy và người nông dân. Việc làm này tránh được hiện tượng chè ở ngoài mô hình đưa vào trong nhà máy và ngược lại nên sản phẩm chè rất an toàn, truy xuất được nguồn gốc. Ở đây phát huy được vai trò làm chủ tập thể, có mức thưởng và tuyên dương những tập thể hoàn thành và vượt kế hoạch. Hằng tháng tổ chức họp rút kinh nghiệm và thông báo kết quả sản xuất. Tổ hái chè được hưởng lương theo số lượng chè giao về Công ty.

Lợi ích lớn

Áp dụng mô hình sản xuất mới này đã cân bằng được lợi ích của người nông dân và doanh nghiệp. Đối với người nông dân trồng chè đã tăng thu nhập bền vững 30 – 40% (trong khi thu nhập người trồng chè ở bên ngoài lại giảm 20%). Người nông dân không phải bỏ chi phí đầu tư, đầu ra cho sản phẩm ổn định, không bị rủi ro trong nông nghiệp. Năng suất lao động tăng gấp đôi, tăng sản lượng do đầu tư, chăm sóc, thu hái đúng tiêu chuẩn. Với mỗi tháng bình quân chỉ làm 8 - 10 công/ha, người trồng chè vẫn có thời gian để làm các công việc khác để tăng thêm thu nhập, đảm bảo sức khỏe của người trồng chè.

Đối với Công ty thì thu được thành phẩm chè với chất lượng tăng lên đáng kể, khoảng 30% ngoại hình và nội chất do búp chè đủ dinh dưỡng. Đồng thời, giảm 25% chi phí thu hái, 50% chi phí thuốc trừ sâu và công phun, vườn chè tăng năng suất 10% trong năm đầu tiên. Vì vậy, giảm giá thành trong khâu chế biến, tăng tỷ lệ chè loại 1, tăng giá bán thành phẩm chè khô, thị trường mở rộng và ổn định. Thực hiện theo mô hình này giúp Công ty xây dựng được tính cộng đồng, đoàn kết và tác phong chuyên nghiệp cho người nông dân, xây dựng được tính minh bạch và cơ chế giám sát tập thể, phù hợp với xu hướng dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp khi hội nhập quốc tế. Điển hình như hộ nhận khoán Nguyễn Thị Liên, thực hiện 0,56 ha chè, từ khi tham gia chương trình liên kết mới sản xuất chè búp tươi theo phương thức tập trung, sản lượng chè đạt 11.110 kg (tăng 1.110 kg so với phương thức sản xuất cũ), tổng thu nhập của gia đình đạt gần 31 triệu đồng/năm (tăng 11,5 triệu đồng so với trước đây).

Kết quả lớn và quan trọng nhất của mô hình này là đã thay đổi nhận thức của người trồng chè: Làm chè an toàn thực phẩm không giảm sản lượng, không tăng chi phí, công lao động ít hơn nhưng chất lượng cao hơn, sản lượng tăng, thu nhập cao hơn, đảm bảo sức khỏe và phát triển bền vững hơn. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của EU và Nhật Bản.

Với nhiều kết quả thành công trong năm đầu tiên – năm 2016 áp dụng mô hình sản xuất mới, với 2 đội sản xuất, gồm 90 hộ nhận khoán, kế hoạch năm 2017 đã có hơn 200 hộ đăng ký tham gia chương trình. Năm 2018, dự kiến sẽ triển khai trên toàn bộ hộ khoán và diện tích chè của Công ty, sau đó triển khai ra diện tích chè vùng dân. Để thực hiện được, doanh nghiệp không thể làm việc với từng hộ dân.

Tại buổi làm việc với Công ty, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đã đề nghị Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ thực vật đề xuất nghiên cứu để có thể đầu tư kinh phí nhân rộng mô hình, từ đó tổ chức lại sản xuất, hướng đến phát triển ngành chè bền vững. Cùng với đó, các cấp chính quyền địa phương cần chủ động tuyên truyền, vận động các hộ dân tự nguyện thành lập tổ nhóm sản xuất, vận hành theo cơ chế trên, có sự bảo lãnh của chính quyền và sau đó giới thiệu với doanh nghiệp để liên kết sản xuất.

N.T.T.H