Đại diện Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ Thực vật, Cục Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Sở Nông nghiệp và PTNT và Trung tâm khuyến nông các tỉnh vùng trồng chè, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè, Hợp tác xã sản xuất chè… tham dự hội nghị.


Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, năm 2014, diện tích chè cả nước đạt khoảng 130 ngìn ha, tăng 4,4 ngìn ha so với năm 2011. Hiện nay Lâm Đồng vẫn là tỉnh có diện tích trồng chè lớn nhất cả nước với 21,9 nghìn ha, tiếp đó là Thái Nguyên với 20,8 nghìn ha, Hà Giang 20,5 nghìn ha, Phú Thọ 16,3 nghìn ha, Yên Bái 11,5 ngìn ha. Năng suất chè cả nước bình quân 83,4 tạ búp tươi/ha, tăng 7,9% so với năm 2011. Sản lượng chè búp tươi đạt 926,6 nghìn tấn, lượng chè chế biến đạt trên 200 nghìn tấn chè khô.

Năm 2014, xuất khẩu chè chính ngạch 133 ngìn tấn, đạt 230 triệu USD và là nước đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu chè, sau: Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya và Srilanka.

Những năm gần đây ngành chè Việt Nam đang đối mặt với những nguy cơ mất thị trường xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu thấp do vấn đề an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè vượt ngưỡng cho phép của 1 số nước nhập khẩu.

Với mục tiêu phát triển chè an toàn, tại hội nghị, nhiều đại biểu đã đề cập đến thực trạng sản xuất cây chè như tập quán sản xuất của người dân, phương thức thuê mua nguyên liệu của doanh nghiệp chế biến xuất khẩu chè; những khó khăn trong quản lý thuốc bảo vệ thực vật dùng cho sản phẩm chè. Ông Nguyễn Hữu Tài Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam cho rằng cần phải có một tổ chức lo dịch vụ bảo vệ thực vật cho các vùng chè. Trước hết các doanh nghiệp phải xây dựng vùng nguyên liệu và lo dịch vụ bảo vệ thực vật cho vùng nguyên liệu của mình, không để tình trạng mỗi năm phun 7-8 loại thuốc BVTV. Theo Cục Bảo vệ thực vật thì độ an toàn thực phẩm của chè Việt Nam ngày càng giảm do người dân đang sử dụng nhiều thuốc BVTV ngoài danh mục hoặc không được phép sử dụng trên chè, nồng độ phun thuốc quá cao và phun nhiều lần, không đảm bảo thời gian cách ly sau phun thuốc.

Sau khi nghe ý kiến của các đại biểu, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh: Cây chè là cây quan trọng, truyền thống liên quan đến đời sống của hàng trăm ngìn hộ dân trong cả nước nên cần chú trọng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay cây chè của nước ta cho năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao, đặc biệt chưa đảm bảo tiêu chuản vệ sinh an toàn thực phẩm. Bộ trưởng đề nghị toàn ngành nông nghiệp phải kiên quyết thay đổi cách thức sản xuất để cây chè đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và đáp ứng xuất khẩu. Bộ trưởng cũng chỉ ra nguyên nhân của thực trạng trên là do sản xuất còn manh mún, tổ chức sản xuất chè chưa tốt, thiếu liên kết với thị trường, người dân thiếu kiến thức, quản lý thuốc bảo vệ thực vật còn nhiều bất cập, tổ chức theo dõi và kiểm tra đánh giá an toàn thực phẩm còn lỏng lẻo, không quản lý tận gốc.

Bộ trưởng đã đưa ra một số giải pháp trước mắt. Đó là: Cần tiếp tục tuyên truyền về kỹ thuật sản xuất và vấn đề ATTP cho chè bằng nhiều hình thức; Quy hoạch vùng trồng chè và phân vùng nguyên liệu chè cho doanh nghiệp; Cấp mã số cho vùng chè nguyên liệu để truy xuất nguồn gốc; Tổ chức lại sản xuất trước hết phát huy vai trò của doanh nghiệp, hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã trồng chè an toàn; Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích sản xuất chè an toàn; Đẩy mạnh hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương hiệu tại các địa phương, doanh nghiệp; Chấn chỉnh quản lý nhà nước, đặc biệt về quản lý BVTV, phân bón, tăng cường thanh tra giám sát để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng; Tăng cường hệ thống bảo vệ thực vật cấp xã kết hợp với phát huy vai trò của các hiệp hội, đoàn thể tại địa phương để tạo ra thói quen sản xuất an toàn cho cây trồng nói chung và sản xuất chè nói riêng.

Huy Nghĩa

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia