George Graef, chuyên gia chọn giống và di truyền đậu tương của trường UNL sử dụng kỹ thuật chọn giống truyền thống để tăng năng suất và chống lại những mối nguy làm giảm năng suất. Điều này có nghĩa là phát triển những giống đậu tương có khả năng kháng sâu bệnh, chống chịu điều kiện khô hạn và có thể chịu được một số điều kiện thay đổi, bao gồm cả việc độ pH của đất cao.

Những ảnh hưởng có thể là có thể xa hơn nhiều thập kỷ

Về phương diện chọn giống, các nhà khoa học tập trung vào những mục tiêu và ảnh hưởng lâu dài. Sự phát triển của một giống mới bắt đầu với xác định mục tiêu như là tăng năng suất hay là nâng cao phản ứng với nước. Sản xuất một giống đậu tương đạt năng suất cao và sử dụng ít nước là mục tiêu quan trọng trong những nghiên cứu của Trường UNL.

Giáo sư Graef nói: “Chúng ta phải tìm được những tính trạng và gen kiểm soát những đặc điểm này. Một khi chúng ta xác định được những dòng đậu tương để sử dụng làm bố mẹ, sau đó lai dòng. Đây là bước đầu tiên trong quy trình chọn giống”.

Quá trình lai dòng bắt đầu ở vườn ươm vào vụ đông ở Puerto Rico hay là ở ruộng thí nghiệm nằm trong khu vực East Campus, sau đó được đánh giá trên đồng ruộng ở Nebraska. Trong suốt mùa đông ơ Nebraska, hai thế hệ tiếp theo được trồng ở vườn ươm ở Puerto Rico. Ở Chile, nơi mà cây sinh trưởng là tương tự như ở Nebraska, các nhà khoa học có thể đánh giá những tính trạng như là năng suất.

Giáo sư Graef nói: “Bằng cách trồng nhiều vụ trên 1 năm, chúng ta có thể hoàn thiện quy trình chọn giống trong 5 đến 7 năm, bao gồm cả việc đánh giá giống trên phạm vi vùng ở Hoa Kỳ”

Từ việc lai ban đầu, 2 hoặc 3 thế hệ đậu tương được tự thụ phấn. Cây đậu tương trồng qua nhiều thế hệ tự thụ phấn sẽ làm cho chúng có nhiều gen xác định tính trạng hơn, điều này sẽ cho phép những gen đó được phân lập trong quá trình lai ở các cây khác nhau trong quần thể. Sau đó các nhà khoa học thu những cây đơn và tạo ra những dòng đậu tương mới.

Chúng ta tạo được hàng nghìn dòng trong 1 năm và trong số đó chọn lọc để đưa vào thử nghiệm trên đồng ruộng ở các khu vực khác nhau. Đây là bước đánh giá đầu tiên trên đồng ruộng ở Nebraska ở 4 - 5 khu vực khác nhau. Đó là khi chúng ta có thể đánh giá về mặt năng suất, chiều cao, độ chín và bất kỳ đặc điểm tính trạng nào là quan trọng đối với vùng Nebraska.

Dựa trên tất cả những số liệu đó, các nhà khoa học chọn lọc những dòng đậu tương tốt và cải tiến qua 2 hoặc 3 năm thử nghiệm ở Nebraska và ở các khu vực khác. Trong suốt quá trình này chúng được phân tích số liệu để quyết định nếu bất kỳ những dòng đậu tương nào mà tốt hơn những giống đang sản xuất và đủ tốt để đưa ra thành giống mới.

Những ảnh hưởng mang tính toàn cầu

Mặc dù nghiên cứu của giáo sư Graef tập trung vào cải thiện các giống đậu tương cho vùng Nebraska, nhưng nhiều trong số những kết quả này có ảnh hưởng đối với sản xuất trên thế giới. Đất và khí hậu ở Nebraska khác biệt cơ bản từ vùng này sang vùng khác, điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều vùng có điều kiện tương tự các khu vực khác trên thế giới. Sự đa dạng này bao gồm về đất, khí hậu, điều kiện địa lý, khả năng cung cấp nước, hệ thống tưới tiêu, độ pH của đất. Độ pH trong đất cao có thể là kết quả của bệnh héo vàng ở cây đậu tương, một vấn đề xảy ra ở một số cánh đồng đậu tương ở Nebraska. Những nhà nghiên cứu ở Trường UNL đã và đang xác định một kiểu gen cho phép cây đậu tương có thể phát triển tốt dưới điều kiện độ pH của đất cao.

Trần Thị Diệu - Trung tâm Khuyến nông Quốc gia

(Dịch theo Tạp chí Trường Nebraska - Lincoln, Hoa Kỳ (số 5, tháng 8/2014)